Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Letter sent human penis - Thư con Cặc gửi con Người

By Võ Nhật Thủ From Đời Cười Ký sự


Kính gửi Con Người.

Chẳng cần bóng gió mà cũng chẳng cần trịnh trọng, tui tự giới thiệu tui là Con Cặc, là một bộ phận hữu cơ gắn liền với Con Người các vị cả về mặt tinh thần lẫn thể xác và cũng là giống “Con” cùng với phần “Con” trong Con Người của các vị.

Tui phải viết thư này trong tâm trạng cực kỳ bức xúc vì những phát ngôn “bôi tro, trét trấu” của các vị đụng chạm đến lòng tự trọng của họ nhà tui.

Trước hết tui phải nhắc lại rằng, tính chất quan trọng của Con Cặc, là họ nhà tui, đối với đời sống Con Người của các vị là điều không thể chối cãi.

Xét một cách biện chứng, chính Con Cặc mới là ông tổ, ông nội, ông cha của các Người. Nếu không có bọn tui các Người đừng hòng mà có mặt trên thế gian này. Nói xin lỗi, các vị cho chúng tôi là hạ đẳng, là gắn liền với cái bẩn thỉu của nhục dục (bọn tui khinh!) nhưng không có bọn tui, tình yêu của các đôi “nam thanh, nữ tú” không sớm thì chày cũng vỗ cánh bay xa! Lúc đó đừng hòng nói đến sự ra đời của các vị. Nói rứa để các vị hình dung tiếp là bọn tui đã mang lại cho các vị niềm hạnh phúc, sung sướng đến ngọt ngào thế nào trong đời sống tình yêu của các vị.

Họ nhà tui đã một thời được Con Người các vị xem là Linh Vật thờ cúng rất chi là hoành tráng, Đó là thời huy hoàng nhứt trong lịch sử họ Con Cặc bọn tui (Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?). Nói có sách mách có chứng, các vị cứ lên tận đền Mỹ Sơn, Quảng Nam nơi đó các vị có thể sờ tận tay, day tận mặt tượng họ nhà chúng tui vẫn uy nghi trên đó và vẫn được gọi một cách trân trọng như danh tính từng khắc tên trong bảo tàng lịch sử Con Người các vị: Tượng Linga!
Vậy mà!

Tui không hiểu các vị hơn tui cái điều chi! Tại răng mỗi khi có cái chi nhớp nhúa nhứt, bẩn thỉu nhứt lại đem ra so sánh với họ nhà tui!

Này nhé! Bọn tui chỉ biết âm thầm làm giúp nhiệm vụ cao cả (lẫn thiêng liêng) để cho quý vị được sống, được tồn tại, Chúng tui không than phiền một tiếng. Chúng tui có ngôn ngữ riêng, cảm xúc riêng, vẫn biết sướng khổ, đau buồn. Ngôn ngữ của chúng tui chỉ có “cái” của nửa thế giới Con Người tức là cái chỗ các vị được sinh ra để đăng ký làm Người í! là có thể đã, đang và sẽ cảm nhận một cách sâu sắc nhất! Nói tóm lại chúng tui không biết nói như Con Người. Vậy mà thằng Người mô, con Người mô phát ngôn bậy bạ không xứng đáng của thành viên trong cộng đồng xã hội các vị, các vị lại rống lên là thằng í, con í nói như Con Cặc!
Rứa thì…. nghĩa là răng hử?

Bọn tui không cần học hành nên không là bác sĩ, Bọn tui chưa từng chữa người nhưng cũng chưa từng làm cái trò bỉ ổi đưa tay dao, tay kéo làm chết bệnh nhân rồi vứt xác xuống sông! Bọn tui khinh luôn cả cái quân dểu giả nhân bản xét nghiệm máu của các Người để trục lợi cho bản thân. Vậy mà tại răng các vị lại đem mấy thằng đó ra chửi: Đồ bác sĩ như Con Cặc!
Nghĩa là, là…. răng hử? Răng mà dám xúc phạm đến nhân cách Con Cặc tui rứa hử?

Bọn tui nào biết xây cầu, đập cống. Nhắc lại: Việc đó là của các vị, các vị phải biết đưa công trình cho thằng mô, con mô có đạo đức chứ? Tại răng bọn í lại cấu kết với nhau (mà các vị gọi là nhóm lợi ích) nuốt sắt, nuốt xi măng nuốt tàn bạo không con nhân tính. Bọn hắn có xứng đáng làm Con Người của các vị hay không? Vậy tại răng lại hô cho thiệt bự: Tụi xây dựng nớ làm như con Cặc. Oan không chớ!

Tui nói thiệt nghe! Vừa rồi cái vụ Bắc Giang, ông Chấn bị oan đó! Các Người quy cho ông Chấn cái tội hiếp dâm bé gái 5 tuổi, tui nghe mà giận không chịu được!

10 năm tù oan của ông Chấn là do ai? Đừng Quy tội cho Con Cặc tui là thủ phạm trực tiếp tham gia nghe! Mà là do sự ngu dốt của Con Người các vị hết đó! Nhớp bẩn, táng tận lương tâm hết chỗ nói! Tui nhắc lại nghe cho rõ nè! Việc điều tra là của ngành công an các vị, bọn tui biết chi? tại răng cũng đem chúng tui ra: Tụi hắn điều tra như Con Cặc!

Dân Miền Trung dầm mình trong lũ, các vị đâu biết rằng chúng tui là những nạn nhân trực tiếp. Các vị cứ hình dung đi! Nếu đem cả cái đầu các vị nhúng trong nước lũ các vị có chịu nỗi 2 phút hay không? Rứa mà hàng trăm, hằng ngàn Con Cặc chúng tui phải dầm mình trong nước suốt kỳ lũ, hiếm hoi lắm mới được tròi lên mặt nước để được hít thở. Rứa đó! Lỗi ni các vị cứ ầm lên nào nhà thiên tai, nào là nhân tai. Chung quy nhà trôi, người chết, cái lỗi to nhứt các vị quy về cho mấy thằng thủy điện. Các vị cứ nghêu ngao do quy trình xả lũ của tụi hắn như Con Cặc! Xin lỗi các vị nghe! Con Cặc chúng tôi có hình thù hẳn hoi. Khi cương thành to, lúc nhu về nhỏ. Còn cái quy trình xả lũ hắn như thế nào? Các vị, có vị nào có dám quả quyết là hắn có hình thù giống Con Cặc họ nhà tui?

Nói tóm lại, càng nói càng tức, tức lắm! Các Người cứ cho mình là đạo mạo, là đạo đức này nọ nhưng xét cho cùng các Người mới là đám dơ bẩn, mất nhân tính ở cấp thượng lưu! Chúng tôi cực lực phản đối những so sánh bẩn thỉu, mà thực chất hoàn toàn bịa đặt, vu khống cho họ hàng nhà chúng tui!

Các vị hãy cứ nhìn lại mình đi! Ngẫm lại mình đi! Các vị đã tốt lành chi đó mà răng dám đem cái đồi bại, bẩn thỉu nhứt trong đời sống, trong cách ăn, nếp ở của mình ra so sánh với đạo đức ngời ngời của Con Cặc nhà tui!

Với lá thư này tui thay mặt cho Họ hàng nhà Con Cặc yêu cầu các vị chấm dứt ngay lập tức và vô điều kiện những nhạo báng, vu khống một cách bỉ ổi liên quan đến danh dự chúng tui.

Không phải là tui dạy khôn các vị đâu! Nhưng các vị nên chọn chính các vị để so đo với cái chi xấu xa, bỉ ổi của các vị là đúng hơn mà cũng chẳng ảnh hưởng đến lòng tự trọng của họ nhà khác. Ví dụ như hãy dũng cảm mà hét lên: Đồ ăn nói như Con Người! Đồ mất dạy như Con Người! Đồ vô đạo đức như Con Người!
Hãy mạnh dạn lên các vị! Người Tàu có câu rất hay tui nhắc cho các vị nhớ: Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu. Dịch sang nghĩa hằng ngày của các vị là: Ngậm máu phun người, dơ miệng mình trước.

Nói rứa để các Người biết bụng dạ Con Cặc bọn tui!

Kính thư.
Con Cặc.

Sốc với sách cho trẻ em!!!!!!




Một hôm, đứa cháu ngoại của tôi được mẹ dẫn đi chơi về. Tôi hỏi cháu: Cháu đi đâu về vậy? Cháu trả lời: Dạ, con đi thăm bà về ạ. Tôi lại hỏi: Cháu thăm bà nào vậy? Cháu liền trả lời một tràng dài: “Bà gì?/ Bà ngoại/ Ngoại gì?/ Ngoại xâm/ Xâm gì?/ Xâm lăng/ Lăng gì?/ Lăng Bác/ Bác gì?/ Bác Hồ/ Hồ gì?/ Hồ ao/ Ao gì?/ Ao cá/ Cá gì?/ Cá quả/ Quả gì?/ Quả đấm”. Tôi ngỡ ngàng, hỏi: Cháu đọc cái gì vậy? Ai dạy cho cháu? Cháu trả lời: Con đọc trong sách mà...

Rồi cháu lấy trong cặp cuốn sách đưa cho tôi xem. Bài đồng dao cháu vừa đọc nằm ở trang 8 của sách “Đồng dao dành cho trẻ mầm non” do Nhà xuất bản Mỹ thuật ấn hành năm 2012 (số đăng ký KHXB: QĐ.87-2011/CXB/36-04/MT ngày 12.10.2011). 

Tôi đọc đi đọc lại bài đồng dao và nhận thấy: Đây là một bài đồng dao mới, nội dung quả là có vấn đề không ổn trong việc giáo dục trẻ em; đặc biệt là trẻ em mầm non, tâm hồn còn rất trong trắng. Các khái niệm, tri thức mà các cháu tiếp nhận được hằng ngày rất dễ ăn sâu trong tâm hồn, trí nhớ. Vì vậy, khi làm sách cho trẻ em phải chọn những bài đồng dao vui, dễ nhớ, nhưng nội dung phải nghiêm túc, có tính giáo dục cao. 

Ở đây, người làm sách đã chọn bài đồng dao mà các khái niệm “bà ngoại” đi liền với các khái niệm “ngoại xâm”, “xâm lăng” (có tính bông phèng, bỡn cợt)... rồi “quả gì”, “quả đấm” (có tính bạo lực) và nhất là “bác gì”, “Bác Hồ”, “hồ gì”, “hồ ao”... theo tôi là không nghiêm túc về nội dung. 

Cái sự vui ở đây thiếu sự trong sáng, vui đến mức bông phèng, quá trớn, không có tính giáo dục về đạo đức, phần nào đó đã xúc phạm đến Bác Hồ - vị lãnh tụ thiêng liêng được cả dân tộc ta và bạn bè thế giới kính trọng. Đành rằng bài đồng dao này cũng cho các cháu biết (chưa nói hiểu) thêm một số từ ngữ, khái niệm, nhưng theo tôi là hoàn toàn không nên đưa vào cuốn sách.

Trong kho tàng đồng dao (kể cả đồng dao cũ và mới) của Việt Nam chúng ta có biết bao bài hay về hình thức và nội dung, có tính giáo dục cao, vì sao những người làm sách không chọn? Thật tiếc lắm thay!

(ST)

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

CUỘC TRÒ CHUYỆN VỚI NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG VỀ THƠ HUY CẬN

ANH NGỌC



Anh Ngọc thời “tân binh” và nhà văn Nguyên Hồng.


Ngày 6-9-1971, mình nhập ngũ và cả đơn vị tân binh được đưa lên Nhã Nam, Việt Yên, Hà Bắc để luyện quân. Đơn vị mình đóng ở xã Phúc Thành, mình và 2 đứa bạn được phân về ở nhờ trong nhà bác Ngọc Thanh, một CCB của thời KCCP. Bác Thanh rất thích thơ văn và quý bọn mình. Một lần bác hỏi mình:

- Cậu làm thơ, viết văn thế có biết nhà văn “Duyên Hồng” không?
- Nguyên Hồng chứ bác, cháu yêu văn ông ấy từ bé sao lại không biết ạ?
- Thế thì may cho cậu rồi. Nhà ông ấy ở ngay Ấp Cầu Đen, dưới Quang Tiến kia kìa, ngày nào tớ cũng gặp ông ấy đi chợ Nhã Nam, ăn mặc nâu sồng, râu ba chòm phơ phất, quần xắn móng lợn, y như ông phó cối ý! Hôm nào rỗi tớ dẫn đến nhà ông ấy chơi nhé!

Được lời như cởi tấm lòng. Mình sốt ruột quá không chịu nổi, ngay tối hôm đó, …. trốn luôn cuộc họp đơn vị, cũng không đợi bác Thanh dẫn đường, một mình đánh đường tìm đến nhà Cụ Nguyên Hồng vốn ở trên một mỏm đòi nhỏ, cách đó chỉ cỡ vài ba cây số…

Và đây là đoạn trích chuyện mình đã từng viết và in trên “Tạp chí Thơ” của HNVVN năm ngoái:

… “Đêm mùa thu chóng tối, khi tôi bước lên triền đồi thì tất cả đã chìm trong bóng đêm và lặng ngắt như tờ. Chỉ có ánh sáng một ngọn đèn dầu le lói hắt ra từ sau chái nhà tre. Tôi còn nhớ, người đón tôi đầu tiên có lẽ là bác gái Nguyên Hồng. Bác nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên và còn ngại ngần nữa. Hình như các bà vợ của những người nổi tiếng đều có thêm nhiệm vụ là làm hàng rào bảo vệ và sàng lọc khách cho chồng. Nhưng có lẽ bộ quân phục đã cứu tôi. Chính lúc bác gái đang có vẻ chần chừ không biết có nên cho vị khách ất ơ không mời này gặp ông chồng hay không, thì nhà văn Nguyên Hồng đã rất nhanh nhẹn từ dưới nhà ngang bước lên tươi cười chào tôi. Đã 41 năm trôi qua, giờ này tôi vẫn nhớ như in gương mặt, ánh mắt và nhất là chòm râu phất phơ nhưng vẫn còn nhiều sợi đen của nhà văn mà tôi đã đem lòng yêu quý và ngưỡng mộ từ thuở thiếu thời. Và trong cái buổi tối mùa thu của năm 1971, trong căn nhà ấm cúng ở Ấp Cầu Đen, Nhã Nam hôm ấy, nhà văn Nguyên Hồng đã trò chuyện với một thằng lính trẻ chưa từng quen biết là tôi bằng tất cả bầu nhiệt huyết vốn nổi tiếng của ông, một cuộc trò chuyện không phân chủ khách, chẳng chút lễ nghi, có thể kéo dài bất tận mà cũng có thể ngừng lại bất cứ lúc nào!

Đúng là lần đầu tiên trong đời tôi được trò chuyện với một nhà văn mà trong tôi đã trở thành cổ điển, đã thuộc thế hệ cha chú xa lắc xa lơ, mà lại vẫn trẻ trung, sung sức và gần gũi đến bất ngờ. Những câu chuyện hoàn toàn tùy hứng và tùy…tiện. Lúc thì ông xưng tôi gọi anh, lúc thì cậu cậu tớ tớ. Và câu chuyện của chúng tôi dĩ nhiên là xoay quanh về thơ. Khi nghe tôi nhắc đến “Cửu Long Giang ta ơi” (bài thơ rất hay của Nguyên Hồng – A.N.), Nguyên Hồng dường như rưng rưng nước mắt. Ông cất giọng đọc vang một đoạn dài. Rồi ngồi lặng đi một lúc. Ông bảo tạng ông thích thơ trữ tình nhưng rắn rỏi và phải đẹp, đẹp một cách sang trọng và tề chỉnh. Ông bảo ông ghét nhất thứ thơ uốn éo, làm duyên làm dáng, mà ông gọi là thứ thơ “vê vuốt” – vâng, đúng là từ “vê vuốt” mà tôi có thể đóng dấu “made in Nguyên Hồng”, vì từ bấy đến nay chưa nghe ai dùng tới bao giờ. Hăng lên, ông còn gọi thơ của một nhà thơ nổi tiếng (vốn có một bài thơ được rất nhiều người truyền tụng) là…”điếm”, là thứ… “thơ điếm”, “chẳng khác gì một con điếm”! Ông đay đi đay lại như vậy. Có cảm giác như ông đang chọc phải một tổ kiến lửa và trong lòng ông cũng đang có một lò lửa bừng bừng. Thực lòng tôi không bao giờ to gan dám bịa ra những chi tiết và từ ngữ như thế. Cầu mong anh linh các vị tiền bối đã khuất, kể cả người trách cứ lẫn người bị trách cứ, xin hãy tha thứ cho tôi vì đã tiết lộ điều này. Tôi chỉ kinh ngạc và bái phục sự thẳng thắn đến không khoan nhượng của một nhân cách nhà văn trượng phu. Bởi vì, sau này tôi thậm chí còn nghe nói chính Nguyên Hồng là người đầu tiên được nghe nhà thơ này đọc cho nghe bài thơ nói trên ngay khi nó mới được làm ra, và khi nghe ông đã…khóc!? (Hìhì…). Vâng, chi tiết nghe có vẻ mâu thuẫn và ngộ nghĩnh, nhưng lại có thể cắt nghĩa được khi đặt vào một tính cách sống giầu cảm tính và có thể gọi là cực đoan như nhà văn yêu quý của tôi. Vào thời điểm ấy và với tính cách ấy, Nguyên Hồng đã hăng hái tống tiễn xuống mồ thứ thơ mà ông dán cho một cái mác chung là “vê vuốt”.

Cứ thế, có lúc tôi đã cùng bật cười và suýt nữa cùng khóc với Nguyên Hồng. Chẳng hạn, khi ông hỏi tôi có thích thơ Huy Cận không? Thay vì trả lời ông, tôi liền đọc:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu…

Đó là “Ngậm ngùi”, một kiệt tác của Huy Cận, mà tôi gọi là “Khúc ca ru của những cặp tình nhân”. Tôi yêu bài thơ này đến nỗi quên cả mình đang ở đâu và sau khi đọc xong, liền liều mạng cất tiếng ngâm theo điệu hát ru, bằng cái giọng cao thấp không quá một khoảng tám của mình. (Sau này, tôi còn nhiều dịp tái bản tiết mục yêu thích này trong nhiều cuộc trò chuyện về thơ, thậm chí còn hát cả ca khúc do nhạc sĩ Phạm Duy phổ bài thơ này, nhưng không lần nào hào hứng như lần đầu thi thố cho một mình nhà văn Nguyên Hồng nghe lần ấy).

Hahahaaa…

Nguyên Hồng cười vang và cất tiếng đọc to bài thơ “Đi giữa đường thơm” của Huy Cận:

Đường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm…

Tôi sướng quá. Chọc đúng tổ con chuồn chuồn của mình rồi. Và liền cất tiếng song ca với nhà văn Nguyên Hồng. Hai cái giọng, một không còn trẻ lắm và một chưa già lắm hòa vào nhau cực kỳ ăn ý:

Lòng dắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Đất thêu nắng bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu
Không biết nữa có chút gì làm ngợp
Trong không khí hương với màu hòa hợp…

Cứ thế hai bác cháu đọc thuộc lòng cho đến hết cả bài thơ mà đảm bảo không sai một chữ nào.

Cho đến giờ này, nhắc lại giây phút ấy lòng tôi vẫn rạo rực đến kỳ lạ. Quả là ở trên đời không có gì sung sướng hơn là gặp được một tâm hồn đồng điệu. Chữ “đồng điệu” là của chính Huy Cận. Bởi sau này, khi đọc được bài bình bài thơ này của tôi trên báo, nhà thơ Huy Cận đã gọi điện cho tôi và ưu ái giành cho tôi hai từ chính xác và quý hóa ấy. Lại xin nói thêm: Hôm nhà thơ Huy Cận “giã từ cõi thực để vào hư”, trong một bài viết đưa tiễn ông, tôi lại dùng đến câu chuyện trên đây của tôi với nhà văn Nguyên Hồng để bày tỏ lòng yêu mến và quý trọng vô bờ đối với thơ và nhà thơ Huy Cận…”

Với đoạn dẫn dài dòng trên, tôi mời các bạn thưởng thức bài thơ “Đi giữa đường thơm” mà tôi và nhà văn Nguyên Hồng đã “song ca” đêm ấy nhé, xem khẩu vị của chúng ta có chỗ nào giống nhau không, OK?

.
ĐI GIỮA ĐƯỜNG THƠM

Đường trong làng: Hoa dại với mùi rơm…
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu ?
Không biết nữa. Có chút gì làm ngợp
Trong không khí . . . hương với màu hoà hợp . . .

Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự
Buổi trưa này xưa kia ta đã đi
Phải cùng chăng ? Lòng nhớ rõ làm chi!
Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng
Trí vô tư cho da thở hương tình
Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình
Như sắp nói, nhưng mà không – khóm trúc
Vừa động lá, ta nhận vào một lúc
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ…
Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng…
Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều:
“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.
Chân đang bước bỗng e dè đứng lại
- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại…

(HUY CẬN - Trích tập thơ “Lửa thiêng”)

LỜI BÌNH CỦA ANH NGỌC:

Đây là một trong số hiếm hoi những bài thơ tạm gọi là vui của Huy Cận. Bởi thơ Huy Cận chủ yếu là buồn – một thứ buồn sinh ra cùng một lúc với trời đất, nó như là thuộc tính, như là cơm ăn, nước uống, khí.trời vẫn hằng nuôi dưỡng những kiếp người. Ngay trong bài thơ tạm gọi là vui này, rồi ra cũng không chạy trốn được thứ định mệnh ấy. Nhưng đấy là chuyện của đoạn kết. Bây giờ ta hãy lần theo từ dòng thứ nhất.

Một cái đầu đề vui – hẳn thế. Nó hứa hẹn những câu thơ vui – quả vậy. Huy Cận đã vẽ ra một cảnh thiên nhiên quê kiểng rất mộc mạc mà thân gần, thứ thiên nhiên vừa nguyên sơ, vừa toả hơi ấm cua con người:

Đường trong làng: Hoa dại với mùi rơm. . .
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng…

Làng, rơm, tre, phượng là cảnh trí của thôn quê, cái nôi lành ấp ủ những con người Việt Nam từ ngàn đời nay. Không chọn một con đường nào khác, mà lại chọn con đường. làng là thi nhân đã dụng ý dắt ta trở về với ngọn nguồn tình cảm của chính ta. Chợt hiểu vì sao một nhà thơ khác, cùng thời với Huy Cận, đã dành cả một bài thơ dài dặn cho một con đường làng:

Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng. . .
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn
(Tế Hanh – Lời con đường quê)

Cùng nói đến đường làng, nhưng Tế Hanh lấy đường làng làm mục đích tái hiện và trong khi làm như thế, ông đã lấy hồn mình để diễn đạt hồn của cảnh. Huy Cận ngược lại, mượn hồn của cảnh để diễn đạt hồn mình. Cảnh trí ở đây vốn đã giàu có với những mùi rơm, hoa dại, với những tre, những phượng, những cu gáy, bướm vàng, khóm trúc, những nắng trải, nắng thêu, và gíó hương đưa mùi dìu dịu phất phơ… Lại được bổ sung bởi sự giàu có của hồn người với những hương hoa tưởng tượng, những khao khát vô cùng lên bề cao hay đi xuống bề sâu. Cảnh đã vui, lại gặp lúc hồn người cũng vui, nên tất cả bỗng thăng hoa, tất cả bất giác lung linh, quyến rũ lạ lùng – những câu thơ lộng lẫy, trang nhã và sang trọng như vẫn thường thấy ở Huy Cận:

Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu…
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ…
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng
Trí vô tư cho da thở hương tình…
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho…

Quả là những dòng thơ đẹp đến não nùng. Vần thơ chặt chẽ nhưng vẫn phóng khoáng: nhịp thơ uyển chuyển lúc nhanh lúc chậm, dồn nén mà đẩy đưa, hình ảnh biến hoá và xao động, từ ngữ chắt lọc nhưng không câu thúc và trên hết là sức bay bổng của trí tưởng tượng có khả năng mời gọi mọi giác quan cùng tận hưởng một bữa tiệc tưng bừng của màu sắc, hương thơm, thanh âm, mùi vị và hơi ấm. Đẹp đến nỗi nó khiến ta ngờ đấy là một giấc mơ. Bởi mặc dù cảnh ở đây là cảnh thật, thật đến từng chi tiết, và niềm hân hoan trong lòng người cũng có vẻ chân thành, nhưng một nỗi lo âu thường trực cứ xui ta băn khoăn hồ nghi rằng tất cả rút cuộc cũng chỉ là một cảnh mộng được bày đặt ra ở trong hồn thi nhân vào một thời khắc hiếm hoi mà cái sầu muôn thuở chừng mệt mỏi quá mà thiếp đi chốc lát. Ngủ đấy, nhưng một mắt của nó vẫn hé mở. Đúng lúc niềm vui trong lòng người toan phất cờ chiến thắng, thì nỗi buồn như một tên lính canh cần mẫn, vội vàng bật dậy vì nhớ đến nhiệm vụ, nó phũ phàng gióng lên một tiếng chuông cảnh cáo: Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu… Cái kết cục có bất ngờ, nhưng không ngoài quy luật. Lo xa quá chăng ? Hay chính đó là lẽ đời – không có bữa tiệc nào không tàn. Chỉ biết rằng như một cái tát, một cú sốc mạnh, ta bàng hoàng rơi xuống giữa cõi thực. Những đường làng, mùi rơm, hoa dại… cảnh trí trong mộng vẫn còn đây, nhưng giờ bỗng trơ trẽn phơi ra dưới ánh sáng mặt trời, mất sạch hồn vía như hàng mã sau mưa và người thơ của sầu hận muôn năm lại trở về đúng bản thể của mình: Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm…

Thực ra, cũng không hẳn chỉ vì mấy câu kết mà nói rằng bài thơ chỉ tạm gọi là vui. Cái vui vốn mong manh được cố ý hà hơi tiếp sức để đem ra hòng chống lại nỗi buồn to lớn thì tự thân đã có vẻ chông chênh, yếu thế – bởi thực ra trong tương quan này, nó không phải là đối thủ của nỗi buồn. Nói như Hoài Thanh, đấy là thứ vui gượng, vui hấp tấp, vui cuống quýt, vì trong lúc vui người cũng biết buồn đương chờ mình ở đâu đó. Bài thơ rất Huy Cận là vì lẽ đó. Nó cũng còn mang đặc thù của thơ ông, vì cho dẫu lấy đề tài từ tình yêu, hay bất cứ gì gì đi nữa, Huy Cận đều trở về với những cảm quan về cuộc đời, về thân phận con người – những sinh linh bé bỏng, yếu ớt trong vòng quay vô hồn của tạo vật và sự xô đẩy không thương xót của cõi thế. Mặt khác, dù vẽ rất tài những khung cảnh đơn sơ, thân thuộc đến dân dã, rất Việt Nam và cũng rất Hà Tĩnh quê hương, Huy Cận tự vẽ chân dung tinh thần của chính mình còn thần tình hơn nhiều, bởi thơ ông chủ yếu là thơ hướng nội. Đọc một bài như Đi giữa đường thơm, ta thấy thi nhân đi với người tình nhưng là một người tình quá mơ hồ, không rõ đến cả giới tính, ngoài lời giới thiệu: Đôi lứa đứng bên vườn tình tự. Rốt cuộc đó có thật là một con người, nghĩa là một người khác bằng xương bằng thịt, hay chỉ là một nửa của hồn thi nhân tự tách ra cho đỡ bớt cô đơn. Bởi vì ở đây chẳng có cuộc đối thoại nào, nói đúng hơn, ở đây con người không nói. Chỉ có một cuộc độc thoại triền miên trong ý nghĩ của một con người là thi nhân – và khi ý nghĩ quá bộn bề, người ta thường im lặng. Với người đã vậy, còn với cảnh thì, như đã nhận xét ở trên, ta thấy thi nhân đi giữa cảnh thực mà lại như không phải, vì ngay từ đầu chàng đã giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng và bàn chân thì không ướm trên đất bằng mà tìm lối bước lên bề cao hay đi xuống bề sâu của một con đường siêu hình nó chỉ tồn tại trong trí não con người; cũng như thế, chàng bước đi mà không rõ mình đang đi ở trong hiện tại hay quá khứ:

Buổi trưa này xưa kia ta đã đi
Phải cùng chăng ? Lòng nhớ rõ làm chi

Tóm lại, con người này không hề của một không gian, thời gian nhất định. Chàng thuộc về mọi nơi và mọi lúc:

Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu

Mỗi bài thơ trong Lửa thiêng là một chiếc linh hồn nhỏ. Cả tập thơ này là một mối sầu thiên cổ, bởi hồn thơ Huy Cận là như thế. Từ sau thơ Đường, hiếm khi ta gặp một cốt cách thơ nào đạt được đến cảnh cõi ấy.

Theo Nguyễn Trọng Tạo Blog

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

NGÀNH ĐIỆN ẢNH NÊN MỜI CÁC ĐIỀU TRA VIÊN VỤ ÔNG CHẤN LÀM ĐẠO DIỄN




Ông Chấn: Họ ép tôi làm diễn viên. Ảnh: Báo Giáo dục Việt Nam

Để nâng tầm của phim Việt Nam, chúng tôi xin đề xuất với ngành điện ảnh nhanh chóng trưng dụng các điều tra viên vụ ông Chấn ở Bắc Giang (có thể sắp phải giải nghệ ?) làm đạo diễn, đảm bảo chúng ta sẽ sớm có giải Oscar. Đúng vậy, chỉ với một người nông dân hiền lành, vô tội mà các vị điều tra viên đã "đạo diễn" y như thật thành một tên sát nhân máu lạnh, qua mặt được cả mấy cấp tòa án và viện kiểm sát thì thử hỏi nếu được làm đạo diễn thật thì có bộ phim nào mà họ không thành công ?

Theo Sơn-Thi-Thư 

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

KINH DÀI NHẤT THẾ GIỚI

- Theo ông kinh nào là kinh dài nhất thế giới ?
- Đó là Kinh Thánh.
- Không phải.
- Đó là Kinh Phật.
- Cũng không phải.
- Đó là Kinh Koran.
- Cũng vẫn không phải.
- Thế nó là kinh nào ?
- Đó là kinh nghiệm của Việt Nam.
-Vì sao ?
- Vì nó được rút mãi mà không bao giờ hết.
- Ừ nhỉ!

(ST)

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013

Thư giãn cuối tuần: MẸ EM SINH RA EM KHI MẸ 8 TUỔI, BỐ 12 TUỔI





Đáng lẽ các giáo sư soạn sách giáo khoa phải hỏi:

- Mẹ em sinh ra em khi mẹ bao nhiêu tuổi? Và khi ấy bố em bao nhiêu tuổi?

Các bác cho biết đây là SGK do Giáo sư nào soạn vậy, để Tễu nọc ra đánh cho mấy roi vào đít!


Tiên sư bố mày, bố không biết chữ thì làm sao ghi được là "Không biết chữ" !?



Pa nô ở trường Đại học Hà Nội - nơi Trung cộng đặt Học viện Khổng Tử

Theo Tễu