Tôi chả bất ngờ gì với cụ Vũ Khiêu cả. Là người chịu khó đọc cụ từ những bài văn tế in năm 1945 đến nay, tôi quả quyết rằng cụ không biết lấy vài trăm chữ Hán Nôm, còn văn bia câu đối của cụ thì dọn vườn cả năm không hết. Phải nói là đối với các thể văn này thì trường hợp cụ Vũ Khiêu chỉ có thể đúng với thành ngữ "Điêu bất túc, cẩu vĩ tục" (Nghĩa là: Lông điêu cài mũ không đủ, đành lấy lông đuôi chó chắp vào). Thơ văn cụ là vậy thôi, nhiều người tưởng là đỉnh lắm. Tôi nói về một bài thơ cụ mới làm ở nghĩa trang Trường Sơn mà lắm người nhắc đi nhắc lại:
Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sĩ
Dạt dào Đông Hải khí anh linh
Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí
Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình.
Bài thơ hỏng vì nhiều lẽ nhưng trước hết cả ba câu trước là hỏng hẳn, chỉ mỗi câu cuối chấp nhận được. Tại sao vậy?
Câu 1. Trong thơ văn, hai chữ "bát ngát" thường mang ý nghĩa tích cực, sảng khoái trước một phong cảnh rộng rãi,trùng trùng nhưng khá bằng phẳng. Đứng trước nghĩa trang Trường Sơn, tâm hồn thi nhân muôn trùng xót xa, lỡ lòng nào dùng 2 chữ ấy: Bất nghĩa, vô tình.
Câu 2: Hai chữ "dạt dào" phụ họa cho "bát ngát", nó cũng dương tính. Đứng trước nghĩa trang mà những dạt dào cùng bát ngát thì nó còn ra cái gì nữa. Vui một cách vô duyên trước chốn thiêng liêng và trước sự hi sinh lớn lao. Té ra là "nhất đứng anh hùng" chả có tí tâm nào với "vạn cốt khô".
Cũng ở câu này, cụ dùng "khí anh linh" phụ họa cho Đông hải là rất sái. Khí từ biển thường là giông bão làm cho lật thuyền đổ nhà, là khí có hại khi nó dạt dào. Hoặc nữa, bốc lên thì người ta gọi đó là "thẫn lâu", báo chuyện tai ương. Ấy vậy mà cụ dùng như không. Tại sao cụ lại viết như vậy? Đây chỉ có thể là vì nội lực mỏng manh, tình cảm đãi bôi, trong đầu lóe ra vài nhúm từ vựng là phang bừa ra cốt cho có hoặc khoe mẽ, thị tài (dởm) mà thôi.
Câu 3: Đến câu này thì ôi thôi. Đọc mà rùng mình. "Ba hồi chiêu mộ" xuất tự cổ thi. Bài này có tên gọi là Chiều Xuân hoặc Chơi đền Trấn Võ. Vì nó có thể đọc cả nghĩa "thanh" và nghĩa "tục", có dị bản này khác nên giới nghiên cứu chưa nhất trí là của Hồ Xuân Hương hay của Bà Huyện Thanh Quan:
Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
Lâng lâng không bợn chút trần ai
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn giời
Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
Nào đâu cực lạc là đâu tá
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Nếu đọc theo nghĩa thanh nhất thì ta cũng thấy đây là một tâm sự hoài cổ xen lẫn bức xúc vì sự đảo lộn hiên tại lúc đó bởi ngôn từ có tính xách mé trịch thượng. Nếu đọc theo nghĩa tục thì ta mỉm cười vì "xuân" (giao hoan nam nữ), "chuông gầm sóng" (động tác tính giao), nước lộn giời (vừa tính giao trên dưới vừa nói lái thành giợi/rợi l...), rồi "nguồn ân, bể ái", rồi "cực lạc" láy thêm cực lạc".
Trở lại với cụ Khiêu, dùng chữ như vậy thì tối thiểu là bất nhã, đặt trước nghĩa trang là bậy bạ.
Câu 4: Câu này không mắc lỗi gì nhưng bài thơ đến 3/4 đã lởm thì còn nói làm gì nữa.
Cụ Khiêu trong văn tế, câu đối, văn bia... chưa sạch được cái nước cản của người năng văn. Ví dụ như như làm thơ bây giờ tả cảnh rước dâu mà viết "Đón em về chim bướm ngất ngây" thì thành trò cười à. Người ta đưa ra cái lí thuyết xuyên văn bản là coi thơ như một lĩnh vực có truyền thống riêng mà mỗi tác phẩm là một lát cắt trong dòng chảy bất tận.
Chỉ có thể nói, văn tế, câu đối, văn bia... của cụ chỉ xứng là mạt hạng của văn chương.
Mọi người không tin, hãy bật mạng lên, dọn vườn tác phẩm của cụ, ngay cả các câu đối cho chính gia tộc nhà cụ, mười chỉ được một mà thôi. Hãy dọn vườn đi nào! Thần tượng dởm sẽ làm hỏng văn chương.
Theo Tễu
Ba voi không được đọi nước xáo!
Trả lờiXóaĐúng là giáo ...xu (không đáng đồng xu)
Hỏi Vũ Khiêu
Trả lờiXóaXưa ông giảng chính trị
Ông thường đem chuyện kể
Tào Tháo giết cả nhà
Bạn hắn, Lữ Bá Xa
Rồi thì ông cao giọng:
Dân tộc chuyên lật lọng
Là dân tộc Trung Hoa (!?)
Cái dân tộc xấu xa
Chuyên lừa thầy, phản bạn
Hăng lên, ông còn phán
Dân tộc ăn thịt người
Ông cứ giảng khơi khơi
Học viên, mắt tròn, dẹt
Lắc đầu, ối thầy ơi!
Nay viếng hồn liệt sĩ
Giữa sâu thẳm Trường Sơn
Mà thơ ông “bát ngát”
Như đi dạo phố phường.
Chốn linh thiêng khói hương
Ông cao hứng “dạt dào”
“Đông Hải” nhuộm máu đào
Ông reo “anh linh khí” (!?)
Rồi ông “rung tâm trí”
Nhớ “chiêu mộ ba hồi”
Ông nhớ “chuông gầm sóng”?
Hay nhớ “nước lộn giời”?
Hay đầu ông chỉ có
Cực lạc, ái ân thôi?
Giữa muôn vạn cốt khô
Bao người mắt đầy lệ
Sao ông vô tâm thế
Viết rặt chuyện tào lao?
Lại còn chuyện hôm nào
Ông muốn hoa mào gà
Được chọn làm quốc hoa
Vì làng xóm gần xa
Chẳng nhà nào không có(?)
Ông khuyên hay ông xỏ?
Rằng mào gà tượng trưng
Cho gà trống anh hùng
Gọi mặt trời thức dậy
Ông đùa như thật vậy:
Gà trống rất thương đàn
Kiếm được cái gì ăn
Gọi cả bầy chia sẻ…
Ông ơi, lí lẽ thế
Cả nón, xin lạy ông
Mào gà? Mào hay mồng?
Eo ôi, đều kinh lắm
Hay là trong sâu thẳm
Duyên nợ gì với ông?
Nào kim cổ tây đông
Nào anh hùng, đại trí
Nhưng xem ra chữ nghĩa
Ông nhầm lẫn chết người
Có bốn chữ còm thôi
Là “Thượng Nguyên Chu thị”
Được ông phán rành rẽ
Thành “Quốc vương thiên nhân”
Khiến bọn buôn thánh thần
Mừng như bắt được của
Theo lời ông, chúng nó
Khoe khoang: ấn vua Trần
Đem ban ấn lừa dân
Hỏi ông, còn liêm sỉ?
THỐNG CHINH ĐẠI VƯƠNG